Bệnh u máu bẩm sinh nên hiểu như thế nào là đúng?

Thức ăn để trong tủ lạnh vẫn có nguy cơ bị nhiễm khuẩn và gây ra ngộ độc nếu không may ăn phải. Vi khuẩn có thể phát triển ngay cả ở nhiệt độ thấp. Dưới đây là những sai lầm chết người khi bảo quản thực phẩm trong tủ lạnh khiến rước độc tố và người, cần tránh ngay.

2. Bệnh u máu bẩm sinh đặc hữu trẻ sơ sinh

Bệnh u máu bẩm sinh là bệnh thường xuất hiện ở trẻ sơ sinh. Khoảng 30% số bệnh nhân mắc bệnh này là trẻ trong tháng đầu sau sinh. Còn lại phần lớn xuất hiện ở giai đoạn 1 tuổi. Chỉ một phần nhỏ xuất hiện ở tuổi trưởng thành.

Bệnh u máu bẩm sinh có đặc tính là mang đầy đủ các tính chất của một khối u ngoại trừ một việc đó là khối u rất lành tính và thường tự teo đi trong các giai đoạn về sau. Khác với các khối u phần mềm khác thường to lên và phát triển theo thời gian. Khi đến một giai đoạn nhất định chúng có thể chuyển thành khối u ác tính. Còn bệnh u máu bẩm sinh đa phần lành tính và tự khỏi.

Bệnh u máu bẩm sinh thường có ba dạng cơ bản: u mao mạch, u dạng hang, u hỗn hợp. Những khối u đó có thể xuất hiện ở bất kỳ đâu trong cơ thể ở những vị trí có nhiều mạch máu. Nhưng thường thì u máu bẩm sinh xuất hiện ở da là chủ yếu và chỉ một phần nhỏ xuất hiện trong nội tạng.

Thông thường, bệnh u máu bẩm sinh người ta thấy u máu xuất hiện ở các vị trí như: mặt, đầu, cổ, mông và đùi. Bệnh thường xuất hiện ở trẻ em. Ngoài ra, chỉ một số ít xuất hiện ở gan, hầu họng, tim và cột sống. Những dạng xuất hiện này chiếm tỷ lệ vô cùng ít và thường gặp ở những người trưởng thành. Đa phần bệnh u máu bẩm sinh ở nội tạng xuất hiện ở gan.

3. Dấu hiệu nhận biết bệnh u máu bẩm sinh

Bệnh u máu bẩm sinh là một bệnh thường gặp ở da nên dấu hiệu nhận biết rất đơn giản. Chúng thường có biểu hiện ở 3 cấp độ:

– Cấp độ thứ nhất là ở dạng nhẹ, dấu hiệu là những vết thay đổi màu sắc có màu đỏ, đỏ tím hoặc phớt xanh. Thông thường, ở giai đoạn này chúng ít khi tạo thành u, cục hay khối. Phần lớn chúng bằng phẳng.

vicare.vn-benh-u-mau-bam-sinh-nen-hieu-nhu-the-nao-body-2

– Ở cấp độ thứ hai là dạng trung bình. Giai đoạn này, u máu đã phát triển thành một khối u thực sự. Chúng gồ lên, nổi lên hoặc đội da lên thành một khối có hình dạng và kích thước rõ ràng. Chúng vẫn có màu của máu trong khối u.

– Cấp độ thứ ba sẽ có biểu hiện kèm theo khi khối u vỡ ra hoặc biến chứng. Sự chảy máu nếu như khối u ngoài da bị vỡ ra hoặc loét nếu như khối u ở sâu trong phần mềm. Ngoài ra còn là những dấu hiệu đặc thù của cơ quan mà tại đó có khối u máu to lên và chèn ép vào tạng và cơ quan chủ đích.

Bệnh u máu bẩm sinh thường ít khi gây ra biến chứng. Do chúng tự biến mất khi trưởng thành. Rất ít trường hợp tồn tại và phát triển to lên. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp không diễn ra như vậy mà chúng có thể gây ra biến chứng.

Biến chứng của bệnh u máu bẩm sinh nói chung ít nguy hiểm và rất ít khi xảy ra. Trong một số trường hợp, biến chứng của bệnh có thể gây nguy hiểm. Chẳng hạn nếu u máu ở hầu họng có thể gây ra chứng khó thở khi chúng quá to, còn u máu ở tim có thể làm giảm lưu thông tuần hoàn qua tim do u máu chiếm chỗ, u máu ở trong cột sống có thể làm yếu xương, u máu ở mắt có thể làm suy yếu thị lực của người bệnh, còn u máu trong gan có thể làm tắc ở một vài vi quản mật.

Đối với những u máu ở ngoài da thì không khó để phát hiện ra bệnh. Đôi khi bệnh u máu bẩm sinh xuất hiện ở ngoài da thỉnh thoảng cũng hay bị chẩn đoán nhầm với những vết xước ngoài da hoặc những chấn thương phần mềm.

Còn với u máu trong sâu nội tạng thì người bệnh phải có những xét nghiệm chuyên biệt để theo dõi phát hiện có biến chứng hay không.

4. Điều trị bệnh u máu bẩm sinh thế nào?

Bệnh u máu bẩm sinh đa phần là những khối lành tính thường tự biến mất và không cần điều trị đặc biệt. Tuy nhiên cũng có những u máu không nhỏ đi mà còn tồn tại như một khối u thực sự. Điều này đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới tâm lý và thẩm mỹ của người bệnh.

vicare.vn-benh-u-mau-bam-sinh-nen-hieu-nhu-the-nao-body-3

Trong giai đoạn đầu, khối u của bệnh u máu bẩm sinh thường sẽ nhỏ lại một cách đáng kể sau khỉ sử dụng các thuốc điều trị. Các thuốc có thể áp dụng điều trị bệnh u máu bẩm sinh là corticoid (thuốc này có dạng uống, dạng bôi, dạng tiêm trực tiếp vào khối u), các hóa chất chống ung thư và thuốc chẹn beta.

Nếu việc dùng thuốc không có kết quả hoặc bệnh không thuyên giảm thì phẫu thuật là phương điều trị được xem là . Phương pháp phẫn thuật có hai loại phẫu thuật bằng lase và phẫu thuật cắt bỏ. Áp dụng theo phương pháp nào còn tùy thuộc vào chiến lược điều trị của từng người và tùy vào vị trí xuất hiện của khối u máu. Phẫu thuật bằng lase ưu tiên sử dụng ở những trường hợp u máu ở bề mặt và ở những vị trí thẩm mỹ nhạy cảm như mắt, môi, mũi, tai và mặt. Thường thì rất ít khi u máu nội tạng phải cần đến sự can thiệp điều trị bằng phẫu thuật.

Xem thêm:

  • Bệnh tan máu bẩm sinh có nguy hiểm như mẹ nghĩ?
  • Điều trị bệnh tan máu bẩm sinh như thế nào?

Share This Post